NGHỆ NHÂN CUỐI CÙNG CỦA LÀNG ĐỒNG ĐÚC ĐỨC LÂM
Trước đây, làng nổi tiếng với nghề duc dong , có nhiều nghệ
nhân được mời tham gia đúc vũ khí giúp cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng
Huân chương. Giờ làng chỉ còn duy nhất cụ Phạm Văn Phụng nắm giữ bí quyết của
nghề truyền thống này.
Làng Đức Lâm xưa kia nay là thôn Phái Nam và thôn Phái Thượng,
xã Thạch Lâm, huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh). Mỗi khi nhắc đến làng đúc Đức Lâm người
ta nghĩ ngay đến nghề đúc nhôm mà ít ai biết làng này từng nổi tiếng với nghe duc dong.
Cách nay khoảng bảy tám chục năm về trước, hầu hết người dân
làng này đều tham gia nghề đúc đồng. Ngày đó, làng chỉ độ 130 hộ mà có đến quá
nửa làm nghề đúc đồng. Đây là nghề chính nuôi sống người dân nơi đây.
Theo lời kể của cụ Nguyễn Văn Tính (84 tuổi), trước đây là
người buôn bán đồ đồng có tiếng ở đất Hà Tĩnh thì ngoài việc đúc các sản phẩm lớn
phục vụ cho đình chùa, miếu mạo,…làng còn đúc cả những vật dụng sinh hoạt hàng
ngày như xoong, nồi, mâm đồng. Làng lập ra các phường, hội để thu mua nguyên liệu
và bán sản phẩm sang các vùng lân cận. Nhiều lúc không đủ hàng, các thương lái
phải đến từng lò để đặt hàng trước, họ ăn ở ngay tại đây để chờ lấy hàng đem đi
bán.
Biết đúc đồng từ lúc 11 tuổi, đến nay cụ Phạm Văn Phụng (79
tuổi) là đời thứ 4 của gia đình có truyền thống đúc đồng lâu nhất ở làng này. Cụ
cho biết: Thủy tổ Phạm Húy Toán, vị tổ nghề chính là kỵ nội của cụ. Riêng đời cụ
Phụng đã đúc không biết đến bao nhiêu sản
phẩm từ chuông đồng loại nhỏ, chiêng, xoong, nồi, mâm… Những sản phẩm này được
bán ở các nơi trong và ngoài tỉnh như
Can Lộc, Hương Khê, Hương Sơn, Quảng Bình, Quảng Trị …
Ngày đó lò đúc nhà cụ không khi nào tắt lửa. Có hôm cả hai
ông bà thức trắng đêm làm cho kịp hàng, “tui thì cầm đèn dầu cho ông đổ khuôn,
nhiều lúc buồn ngủ quá, mắt thì nhắm liu riu còn tay vẫn cầm đèn như tượng vậy”
bà Lê Thị Thơm vợ ông chia sẻ.
Nhà ông vào lúc cao điểm cũng có hơn chục người tới đặt
hàng, rồi ngủ lại chờ ngày mai lấy hàng rồi mang đi bán luôn. “Thời đó, làng
giàu lắm! Nhà nào biết đúc thì đúc, những nhà không đúc thì đi thu mua đồng ở
các nơi khác về cung cấp cho các lò. Nhờ vậy nhà cửa khá khang trang, con cái
được học hành, kinh tế cũng tươm tất” - cụ ông kể.
Quyết giữ lấy nghề ông cha
Bây giờ giữa cái nắng mùa hè oi bức, lại mất điện triền miên vậy mà một mình ông Phụng vấn cởi
trần nung khuôn đúc bằng rơm. Thỉnh thoảng ông mới đúc đồng khi có người đặt
hàng còn thì ông đúc nhôm. Xưa kia cả làng có hơn 70 hộ đúc đồng nhưng từ khi
chuyển sang nghề đúc nhôm hơn chục năm
nay giờ cả làng chỉ còn mình cụ Phạm Văn Phụng đang nắm giữ được bí truyền của
nghề đúc đồng.
Theo cụ Phụng: “Đúc đồng là một nghề rất vất vả nên ít người
còn theo được. Đúc đồng đòi hỏi kỷ thuật cao hơn so với đúc nhôm. Ngoài nhiệt độ,
cách pha chế lẫn cách làm khuôn cũng khác. Còn đúc nhôm thì dễ hơn, nguyên liệu
cũng dễ kiếm hơn có thể tận dụng khuôn đúc đồng cũ. Nhà tôi bắt đầu chuyển sang
đúc nhôm khoảng từ năm 1990, lúc trước còn chiến tranh cả nước tập trung cho tiền
tuyến, nguyên liệu đúc do nhà nước quản lý, nên không có đồng sản xuất, vì vậy
nghề đúc đồng bị gián đoạn một thời gian dài. Mãi cho đến những năm 90, tôi và
ba người trong xóm bắt đầu nhen nhóm lại nghề đúc đồng nhưng do lúc đó không thể
cạnh tranh được với những sản phẩm cùng loại trên thị trường nên đành phải chuyển
sang đúc nhôm”.
Nhà cụ Phụng có 6 người con nhưng cụ cho biết không ai chịu
nối nghề cha ông; thậm chí còn khuyên cụ bỏ nghề cho khỏe.
Dù vậy, lò đúc của cụ Phụng ngày nào cũng đỏ lửa cho dù có
ngày cụ chỉ nung khuôn hay đúc một cái nồi cho mấy người trong xóm đến đặt; đó
là cách để cụ giữ lấy cái nghề truyền trống của gia đình và của làng. “Bây giờ
tôi đã 79, cái tuổi “gần về với tổ tiên” mà chưa có ai để truyền lại nghề truyền
thống đúc đồng của làng thì thật là một điều còn chưa toại nguyện. Cái lớp già
như tôi giờ mà chui xuống lỗ là coi như thất truyền luôn” - ông Phụng trăn trở.
Nhận xét
Đăng nhận xét